BÍ TẮC KIM CANG CÔNG PHU LỜI GIỚI THIỆU Người có tâm đức đem những nội dung sở học hữu ích giúp cho xã hội và lưu truyền lại cho lớp người sau là điều rất quý báu và đáng kính trọng. Ông Liên Nhã Trần Kim Cang có nhiều hiểu biết và thực tế trong các lĩnh vực tâm linh đã được ông cha và thầy tổ truyền đạt. Ông thường nhắc nhở cho các học trò của mình luôn giữ tâm đức và hãy thể hiện những điều chân chánh, thật tốt đẹp cho tâm linh càng thêm sáng ngời. Hiện nay có nhiều người thuộc nhiều giới, ở từ nhiều nơi, cả người nước ngoài có cơ duyên được ông truyền đạt những môn học về tâm linh để chữa trị bệnh... Ba quyển sách Khí công Kim Cang Thiền, Kim Cang Dịch Quái Linh Phù và Bí Tắc Kim Cang Công Phu của cùng một tác giả lần lượt ra đời đều có giá trị cao về lĩnh vực trí tuệ và có lợi cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng, đồng thời nội dung quyển sách đã truyền đạt cho nhiều người và thể hiện thành công những gì gọi là công năng huyền bí, giúp cho lớp người sau nhìn thấy những gì đúng sai, chân giả của bùa chú để tránh nhầm lẫn, mê tín. Những người có duyên đã được một lần nhìn thấy tận mắt hoặc xem qua màn ảnh nhỏ với chương trình “chuyện lạ Việt Nam” do đài truyền hình VTV3 phát sóng hàng tuần, trong đó có những tiết mục biểu diễn làm khán giả hồi hộp, thích thú như là kéo xe có tải trọng nặng, dùng bàn tay chặt bê tông hay nhiều lớp gạch thẻ, đóng đinh vào người, nằm trên miểng chai, đi qua lửa than hồng… được học trò của ông thực hiện theo nội dung quyển BÍ TẮC KIM CANG CÔNG PHU này. Công năng chính của 36 pháp công phu sau đây nhằm để bảo hộ sức khoẻ cho cơ thể, tinh thần bình an và hoàn toàn không làm hại ai. Như vậy, điều đó chứng minh cho thấy nội dung những bài học đã được ông Liên Nhã Trần Kim Cang truyền dạy cho những người học trò với độ tuổi, học vấn và địa vị xã hội khác nhau là các nội dung khoa học, không phải là chuyện dị đoan. Mong rằng bạn đọc và ai cũng tìm thấy cho mình những điều bổ ích trong cuộc sống. Thành phố Hồ Chí Minh 12 - 05 – 2007. KS. HUỲNH BỬU HÒA - Nguyên Uỷ viên Hội Địa lý Niệt Nam. - Nguyên Phó chủ tịch Hội Địa lý – Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh Thay lời nói đầu Các bạn trẻ đọc giả thân mến, Quyển Bí Tắc Kim Cang Công Phu này tôi soạn đã hoàn chỉnh và từ nay cho lưu hành nội bộ. Các tài liệu đã phổ biến từ trước nội dung còn rất nhiều sự kém khuyết, hoặc không chính xác, vì vậy các bạn hãy thiêu hủy để tránh nhầm lẫn khi sử dụng, rất cảm ơn. Bí Tắc Kim Cang Công Phu là loại Khí công thượng thừa và chỉ được mật truyền, người có đủ cơ duyên mới được các vị chân sư chỉ dạy cho từng bước một. Công năng của nó dùng chữa trị thân bệnh và tâm bệnh... “Trước hết tôi mong các bạn hãy tìm hiểu không muốn mọi người vội tin.” Thưa các bạn, tôi viết các quyển như Bí Tắc Kim Cang Công Phu, Kim Cang Dịch Quái Linh Phù và Khí Công Kim Cang Thiền này là vì bổn phận phải lưu truyền cái vốn rất quý hiếm và vô cùng giá trị của thầy tổ, ông cha ta cho các con cháu ngàn đời sau, không phải vì tham danh vọng hay muốn “tranh hùng xưng bá”. Nỗi đau lòng của tiền nhân đã làm cho tôi hàng ngày trăn trở, giấc ngủ không yên: “ Ta mang một túi càn khôn
Chưa truyền hậu thế vội chôn xuống mồ Ngày đêm ta phải trông chờ Tâm linh ngời sáng đến giờ trao tay Bằng không gặp cảnh duyên này Ta đầu thai lại làm thầy giảng du Mong người thấu nỗi hiền ngu..........” Suy nghĩ đến những điều đó khiến tôi phải có trọng trách: Có duyên được kế truyền từ vị thầy cõi tâm linh thì phải có bổn phận truyền dạy cho hậu thế với những người có tâm đức và thiện duyên với bùa chú, không thể để cho những pháp môn này mai một!... Những người vốn không có duyên nên chưa được một lần nhìn thấy tận mắt các công năng đặc dị của bùa chú, nếu chỉ được nghe những người lớn tuổi kể lại những chuyện lạ trên đời có đầy sự bí ẩn như: Ông A hay ông B ở vùng Nam bộ tát nước vào ruộng bằng hình nhân, chẽ củi bằng bàn tay, kéo ghe chài bằng sợi chỉ, đi trên lửa than dài bảy tám mét, lặn dưới nước hàng giờ đồng hồ, đi qua sông bằng nón lá, v.v... Những pháp môn làm kinh thiên động địa của một thời xa xưa đó đều là pháp thuật của ông cha chúng ta bày ra có tính giáo dục nhân tâm đạo đức cho con cháu. Nếu ngày nay chúng ta không tìm hiểu, nghiên cứu và phát huy những điều đáng quý kia thì dần dần nó sẽ bị mai một, thật đáng tiếc vô cùng... “Bùa chú không có tính tôn giáo, bùa chú thể hiện sức sáng tạo của con người trong lúc tâm linh vô thức thăng hoa, nó là loại khí công thượng thừa dùng để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh, bùa chú có tính khoa học tâm linh rất sâu sắc nên bản thân bùa chú không phải là những điều mê tín, mà chỉ có những người không muốn hiểu biết về nó đã khoác lên bùa chú chiếc áo đầy sắc màu mê tín”. Bùa chú có nhiều phái như của chư vị Tiên trưởng, Đạo gia, Phật gia, v.v... Bùa chú là phương pháp chữa bệnh trong dân gian, nó mang tính dân tộc của nhiều quốc gia trên thế giới. Sự linh nghiệm của nó cũng không thể nói hết hay suy nghĩ đến cùng tận. Nếu người không có duyên được lĩnh hội từ một vị thầy trong tâm linh hay những vị thầy bằng xương thịt mà chỉ dùng tri thức cá nhân để tìm hiểu, nghiên cứu bùa chú thì chẳng khác nào như những người trong câu chuyện năm người mù sờ con voi: Người bảo con voi như con đĩa, người bảo con voi như cái quạt, người bảo con voi như cây cột nhà, người bảo con voi như cái trống, người bảo con voi như cây chổi quét nhà. Hay cũng như kẻ khù khờ đứng từ xa ngắm nhìn ngơ ngác cái vẻ đẹp lạ lùng từ bên ngoài của một toà cung điện quá to lớn, nguy nga, tráng lệ... rồi hoảng sợ vội bỏ chạy và la lên: Đừng có tin, đừng có tin, đó là ngôi nhà ma, không có gì hay đâu, nó giết chết mọi người, đừng vào đấy, v.v… Các bạn muốn tìm hiểu, nghiên cứu bùa chú thật ư ? Không có gì khác hơn là: “Trăm nghe không bằng một thấy, ngàn ngàn lần nhìn thấy không bằng một lần chính mình thực hiện thành công”. Thời gian qua tôi đã truyền dạy cho rất nhiều học viên trong nước và người nước ngoài có nhiều tâm đức, một vài bài chú mang tính công phu đặc dị trong quyển Bí Tắc Kim Cang Công Phu này và họ đã đem sở học của mình ra biểu diễn trước quần chúng, những nơi lễ hội, hay trên đài truyền hình.... như những môn: đâm kim và đóng đinh vào người, kéo xe tải qua móc sắt vào người, đập đá trên đầu, nằm trên bàn chông, nằm trên mảnh thuỷ tinh, nằm trên lưỡi dao sắc và nhọn, cho xe ôtô nặng hàng tấn cán tự nhiên qua người, đi qua lửa, đứng trên tờ giấy mỏng, múa lửa, đâm sắt nhọn vào cổ hay vào thân người, dùng móc sắt móc vào thân thể treo lên cao, nằm trong nước ao sâu vài giờ, v.v... Họ thể hiện được như vậy thì tinh thần rất phấn khởi và được sự nhiệt liệt khen thưởng nhiều mặt của quần chúng. Quyển Bí Tắc Cang Công Phu đến tay quý vị bạn đọc, với lời chân thành và lòng biết ơn sâu sắc của chúng tôi đến các vị mạnh thường quân, các học trò cộng sự, các bạn hữu, tất cả anh chị em học viên trong và ngoài nước, đã tận tình giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất để chúng tôi sớm hoàn thành hoài bão này. Sách khó tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, chúng tôi hoan hỷ xin thâu nhận mọi ý kiến phê bình và chỉ giáo từ các độc giả để nội dung ngày càng hoàn thiện hơn. Bình Dương mùa hè năm Đinh Hợi – 2007 Trân trọng Liên Nhã TRẦN KIM CANG Phần I
TƯỞNG NHỚ CÔNG ƠN CHA MẸ VÀ THẦY TỔ Nén tâm hương kinh dâng hương hồn Thân phụ, sư phụ Trần Quang Huy (1911-1982) Thân mẫu Nguyễn Thị Phòng (1915-1985) và Thầy Tổ đã dìu dắt con đi trên cõi đời này. Kính Lạy Thân Phụ, Sư Phụ: TRẦN QUAN HUY (1911 – 1982) Kính Lạy Thân Mẫu: NGUYỄN THỊ PHÒNG (1915 – 1985) CHÙA MINH ĐỨC, Xã Hòa Ân, Huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh, nơi gia đình chúng tôi cư ngụ từ 1947 – 1974 VẠN HOÀ CỔ TỰ, Thị trấn Cầu Kè, Huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh, nơi tôi xuất gia tu học năm 1952 CHÙA PHÚ THỌ, đường Lãnh Binh Thăng, quận 11, TP.HCM, nơi tôi giữ chức trụ trì từ 1965 – 1967 CHÙA HOÀ BÌNH, Thị trấn Cầu Kè, Huyện Cầu Kè, Tỉnh Trà Vinh, nơi thân phụ, sư phụ khai sơn năm 1975 Kính lạy tạ ân 1– Cửu huyền thất tổ nội - ngoại. 2– Thân phụ: Trần Quang Huy, thân mẫu Nguyễn Thị Phòng, những người có công đức sinh thành, công ân nuôi dưỡng, công lao dạy dỗ cho con thành người. 3– Thân phụ, sư phụ: Trần Quang Huy, người đã đem hết tâm huyết truyền dạy chỉ dẫn Tâm phù bí pháp, Y học cổ truyền và các học thuật phương đông cho con. 4– Bổn sư: Hoà thượng Thích Hoàn Thông, người đã cưu mang dạy dỗ đạo pháp và ban tấm gương đức độ cao cả trong suốt cuộc đời vào tận tâm hồn con. 5– Chư vị sư phụ ân sư: Hoà thượng Thích Thiện Phước, Hoà thượng Thích Thiện Thành, Hoà thượng Thích Thanh Viên, Hoà thượng Thích Trí Minh, Hoà thượng Thích Liễu Minh, Hoà thượng Thích Trí Quang... những người đã cưu mang dạy dỗ chỉ dẫn cho con tu học giáo lý Phật pháp, những tri thức, kiến thức ở đạo và đời. 6– Xin tri ân: Quý Thầy cô giáo, Giáo sư, Bác sĩ, Dược sĩ, Võ sư, Hoạ sĩ, Nghệ sĩ... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn ban tặng những tri thức, kiến thức và nghề nghiệp cho con. 7– Xin tri ân: Thầy Nguyễn Hoàng Bá, Thầy Lưu Sơn Long, Thầy Dương Hải Thọ.... những người đã cưu mang tận tâm truyền dạy chỉ dẫn những Pháp thuật huyền bí và Học thuật thôi miên cho con. 8– Xin tri ân: Lục cả Lục Tà Khen, Lục cả Lục Tà Canh, Thầy Mười Út, Thầy Sáu Miền Tây, Thầy Mười Long An, Thầy Mười Hậu, Thầy Bảy Chánh, Thầy Mười Điền Cà Mau... những người đã tận tâm truyền dạy Bùa ngải cho con. 9– Xin tri ân: Võ sư Trần Thiên Phước, Võ sư Trần Thiên Đức, Võ sư Mã Nhất Tiền, Võ sư Đàm Mật Long, Võ sư Phùng Thiên Nhai.... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn Võ công, Khí công và Yoga cho con.
10– Xin tri ân: Võ sư Quan Chấn Đông, Võ sư Đàm Mật Long, Võ sư Thạch Bửu Thiền... những người đã cưu mang và tận tâm truyền dạy chỉ dẫn Thất Sơn Thần Quyền, Thần Quyền Lục Pháp cho con. 11– Xin tri ân: Đông y – Y dược sĩ Cao Thuần Hoàn, Đông y – Y dược sĩ Trần Thiên Phước, Đông y - Y dược sĩ Trần Thiên Đức... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn riêng những kinh nghiệm hiểu biết đầy sự quý báu trong Đông Y cho con. 12– Xin tri ân: Bác sĩ Nguyễn Thành Tài, Bác sĩ Trần Trung Thành, Bác sĩ Phạm Thanh Xuân... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn riêng những kinh nghiệm hiểu biết rất quý báu trong Tây Y cho con. 13– Xin tri ân: Thầy Trương Đức Lâm, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Dịch lý cho con. 14– Xin tri ân: Thầy Đào Kiến Minh, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Tử vi cho con. 15– Xin tri ân: Thầy Cao Minh Cảnh, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Phong thuỷ cho con. 16– Xin tri ân: Thầy Vương Quảng Châu, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Tướng mạng cho con. 17– Xin tri ân: Ảo thuật gia Lê Văn Quý, Ảo thuật gia Nguyễn Thành Long, Ảo thuật gia Quan Thế Châu... những người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn vốn quí khoa Ảo thuật cho con, để phân biệt thật – hư giữa bùa ngãi chân chính với các trò ảo thuật. 18– Xin tri ân: Lương y Nguyễn Văn Ngọc, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn khoa Y Dịch Lục Khí cho con. 19– Xin tri ân: Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Phư, người đã ban những tri thức, kiến thức và chỉ dẫn cho con tìm thấy “Sự nhiệm mầu của đôi bàn tay”. 20– Xin tri ân: Thầy Tạ Duy Thành, người đã tận tâm truyền dạy chỉ dẫn phương pháp Nhân Điện cho con. 21– Xin tri ân: Thầy Công Kim Thắng, Thầy Bùi Trọng Tân, Thầy Nguyễn Khắc Hữu, Thầy Huỳnh Thiện Tuần, Bác sĩ Võ Văn Thạnh, Bác sĩ Đỗ Cao Thư... những người luôn nêu tấm gương đức độ cao cả, tận tâm khuyên dạy hướng dẫn khuyến khích mọi người và con nên làm những điều có ích cho mai sau. 22– Xin tri ân: Những người bạn cùng trường, cùng lớp, cùng hội... đã chỉ dẫn, trao đổi những kinh nghiệm hiểu biết đầy sự quý báu cho tôi. Tác giả. Thần Bảo vệ Phần II CHƯƠNG MỘT I - NGUỒN GỐC BÍ TẮC KIM CANG CÔNG PHU (*) Tôi tên Trần Kim Cang pháp danh Thích Liên Nhã, lúc đang giữ chức trụ trì chùa Phú Thọ, đường Lãnh Binh Thăng quận 11 Sài gòn, xin ghi lại câu chuyện trong giấc mơ như sau: “Vào đêm rằm tháng 10 năm Ất Tị, nhằm ngày 07-11-1965. Nửa đêm khuya trong lúc tịnh thiền, tiềm thức tôi thấy cụ già tóc bạc, mặc áo rộng có thêu nhiều hình Bát quái, bằng chỉ kim tuyến màu vàng sáng chói… Tôi hiểu ngay đây là Đức Thái Thượng Lão Quân. Ngài trao cho tôi một cái túi vải nhung màu đỏ, tôi mở dây cột miệng ra thấy một quyển sách ngoài bìa cũng màu đỏ, chính giữa dán một mẩu giấy nhỏ màu trắng có ghi mấy chữ nho bằng mực đen: “DỊCH QUÁI LINH PHÙ” (nay sách có tựa là Kim Cang Dịch Quái Linh Phù). Sau đó Ngài trao tiếp cho tôi một cái túi vải nhung màu đen, tôi mở dây cột miệng ra thấy một quyển sách ngoài bìa cũng màu đen, chính giửa dán một mẩu giấy nhỏ màu trắng có ghi mấy chữ nho bằng mực đen: “KHÍ CÔNG BÍ TRUYỀN“ (nay sách có tựa là Khí công Kim Cang Thiền). Rồi Ngài lại trao tiếp cho tôi một cái túi vải nhung nữa màu xanh lá cây, tôi mở dây cột miệng ra thấy một quyển sách ngoài bìa cũng màu xanh lá cây, chính giữa dán một mẩu giấy nhỏ màu trắng có ghi mấy chữ nho bằng mực đen: “HUYỀN BÍ CÔNG PHU“ (nay sách có tựa là Bí Tắc Kim Cang Công Phu ). “Bỗng có cơn gió thổi đến rất mạnh, khiến tôi bay lên tận không trung. Tôi thấy mình đang dạo bước thảnh thơi trên những đám mây có năm màu sáng chói, tươi đẹp, tôi đưa mắt ngắm nhìn nhiều toà lâu đài
nguy nga, tráng lệ... bên tai tôi nghe rõ giọng ngâm từng câu thơ rằng: “Ta mang một túi càn khôn Chưa truyền hậu thế vội chôn xuống mồ Ngày đêm ta phải trông chờ Tâm linh ngời sáng đến giờ trao tay Bằng không gặp cảnh duyên này Ta đầu thai lại làm thầy giảng du Mong người thấu nỗi hiền ngu Minh tâm kiến tánh cần tu tiên đài Muốn thành công phải miệt mài Chuyên tâm tập luyện không nài gian lao Có duyên mới được truyền trao Phép mầu không dễ người nào cũng thông Tài cao nhờ bởi chuyên lòng Phép linh còn, mất do trong tâm mình Không vì tài lợi đua tranh Thị phi chồng chất tâm linh lu mờ Học cho thấu bến rõ bờ Không thôi đừng học, ngu ngơ người cười”. “Và vọng lại tiếng cười đầy an lạc của Đức Thái Thượng Lão Quân... làm tôi chợt tỉnh thức“. Đại ý bài thơ nói lên nỗi niềm của vị thầy tâm linh đang mong mỏi tìm được hiền nhân để trao gửi những điều vô giá. Xin đặt tên bài này là “Tâm sự của đấng tâm linh”. (*) --------------------------------------------------------Bí Tắc Kim Cang Công Phu: * Bí - huyền bí: môn học về các mầu nhiệm... * Tắc - nguyên tắc: điều cơ bản định ra... * Kim cang: tên của một người. * Công phu: tốn nhiều thời gian khổ luyện. Giải thích: - Người ham thích môn học về các mầu nhiệm nhất thiết phải tuân theo những điều cơ bản đã đặt ra và phải tốn rất nhiều thời gian khổ luyện mới thành công. II - CĂN DUYÊN LÀNH Ngày 09 tháng 12 năm Bính Ngọ - 1966. Tại Chùa Giác Sanh 103 Đường Lê Đại Hành Quận 11 Saigon. Vào một buổi chiều vắng vẻ, tôi ngồi trong liêu phòng luyện tập các Chữ Bùa, nhắm mắt niệm những bài Thần Chú, dùng vào việc chữa bệnh giải an cho chư Phật tử. Mặc dù tôi đang nhắm mắt nhưng tinh thần của tôi rất tỉnh táo, hoàn toàn không buồn ngủ. Chợt trước mắt tôi có một vùng ánh sáng màu vàng như ánh trăng chiếu xuống... Từ trong ánh sáng màu vàng đó Ngài Địa Tạng Đại Bồ Tát hiện rõ nguyên hình và bước đến đứng trước mặt tôi đọc bài kệ rằng: “ Vạn pháp bằng tư tưởng Nhiều lời còn một lời Nhiều nét còn một nét Linh nghiệm không nói hết Quán nét bùa câu chú Thành linh vật vàng kim Từ trong ánh kim hoàng Cầu xin đúng sở nguyện Trăm việc đều như ý …” Bất chợt tôi mở mắt ra, cảm thấy có mùi trầm hương đang thoang thoảng khắp phòng. Tôi liền quỳ lạy vào khoảng không trung ba lạy, tạ ân Ngài Địa Tạng Đại Bồ Tát đã chỉ giáo!
Thường ngày tôi đem bài kệ ra đọc... vậy mà chẳng thấu hiểu lý lẽ huyền vi! Mỗi đêm, trước khi ngủ tôi đều cầu khấn Phật Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát và Phật Mẹ Cửu Thiền Huyền Nữ chỉ giáo cho những điều mà tôi thường hay thắc mắc để hiểu biết thêm. Một hôm trong giấc ngủ, tôi được Phật Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ giảng dạy cho: “…Tập trung tư tưởng là nguyên động lực giúp mọi người thành công trong nhiều lĩnh vực. Trước kia thường dùng những bài chú quá dài dòng, có nhiều từ, chữ bùa có nhiều nét. Ta phải biết biến đổi trở nên ngắn gọn, để dễ dàng luyện tập, thành công nhanh hơn... Bởi vì, nếu đọc bài chú quá dài dòng khiến tâm trí khó tập trung, vẽ chữ bùa nhiều nét khiến tư tưởng dễ phân tán. Nay dùng thần chú chỉ còn một từ, hoặc đạo bùa chỉ còn một nét thôi, vẫn đủ sức chứng tỏ những quyền năng, và sự linh nghiệm cũng không thể nói hết”. “Riêng người hay dùng bùa chú vào việc chữa bệnh giải an, cứu nhân độ thế. Khi vẽ bùa hay niệm chú phải tập trung tư tưởng cao độ. Quán tưởng từng nét của chữ bùa thành màu vàng kim chiếu sáng lấp lánh và câu thần chú phải hiện rõ từng chữ hay nguyên bài cũng thành màu vàng kim sáng ngời. Rồi nhìn ngay vào ánh vàng kim sáng ngời đó mà thành tâm cầu xin những điều gì mà chính mình đang mong muốn... Dẫu cho có đến hàng trăm, hàng ngàn việc cầu xin khác nhau, nhưng nếu tập trung tư tưởng thực hiện được như vậy thì chắc chắn đều thành công như ý”. Từ ngày đó về sau, mỗi khi tôi dùng đến bùa chú, đều khấn bái Phật Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu, Phật Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát, Phật Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ, Đức Thái Thượng Lão Quân, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát Ma Ha Tát, Đức Chúc Do Tổ Sư, Đức Lỗ Ban Tiên Sư và Vạn Ban Ngũ Hành hộ trì… Kim châm công CHƯƠNG HAI LỜI NGUYỀN CỦA KIM CANG TIÊN SƯ Ngàn năm sau nữa ai cầu đến Hồn vẫn hiện về trong khói hương. LỜI KHUYÊN “Hãy tự nói lời xin lỗi khi mình vừa có ý nghĩ sai…” CHƯƠNG BA I – NHỮNG LỜI ĐÁNG GHI NHỚ Đức Thái Thượng Lão Quân dạy: "Người muốn thành công trong việc tu luyện bùa chú không được nói lời hung ác, xỉ nhục khinh thường các bậc tiên thánh thầy tổ, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh em, họ hàng, con cháu, bạn hữu láng giềng. Nếu người còn tâm tánh đó mà hành trì bùa chú thì không linh nghiệm". Đạo sĩ Kim Kang Ta nói: Nếu không dạy “đạo” mà chỉ dạy “thuật”, thì khiến cái tâm của người học trò không trong sáng, sẽ gây ra nhiều điều chẳng lành trong thiên hạ, ảnh hướng xấu đến tổ tiên, giảm uy danh môn phái, thầy tổ và cha mẹ rất đau lòng…, về sau, bản thân và gia đình của người học trò ấy sẽ gặp nhiều cảnh khốn khổ. Vì vậy hãy học đạo trước rồi sẽ học thuật sau. Đạo sĩ Kim Kang Ta nói: Mục tiêu người học bùa chú là để tu luyện cái tâm và khi thực hành bùa chú cứu nhân giúp đời là sự tu nhân tích đức cho bản thân và có ảnh hưởng tốt đẹp đến con cháu ngàn đời sau…, thường ngày chúng ta không để tâm rèn luyện đạo đức để những việc tốt đẹp càng thật tốt đẹp hơn, danh thơm tiếng tốt bay xa hơn..., nếu trong một khoảnh khắc nào đó, mình có hành động thiếu suy nghĩ nên bị “mất đức” thì thật đáng tiếc, sự ăn năn không còn ý nghĩa nữa, dù trải qua bao thời gian, danh tiếng xấu mà mình đã gây ra vẫn không xóa hết!... Đạo sĩ Kim Kang Ta nói: Chúng ta hãy xem sự thành công của mình là một phương tiện quá nhỏ bé để tiến tu tâm đức nhiều hơn nữa cho thân thể thêm thuần khiết và tâm trí càng minh mẫn, yên vui hơn. Không vì tài lợi đem tài năng ra tranh đua, hơn thiệt cùng nhau. Bởi vì, tất cả chúng ta phải ghi nhớ rằng:
Những công năng đặc dị từ bùa chú mà ta có được hôm nay, đều từ “Một vị thầy tâm linh” truyền dạy. Nếu chúng ta bày trò so tài cao thấp, gây chuyện hơn thua với nhau thì sẽ bị tiếng đời cười chê: “Gà bầy bôi mặt đá nhau”, là người không biết tự hỗ thẹn, không đạo đức, kẻ phản lại thầy, hại bạn đồng môn…, chính ta làm cho lời thi phi càng chồng chất, là kẻ làm cho thầy tổ, cha mẹ đau lòng, buồn tủi, hỗ thẹn không dám ngước mặt nhìn mọi người và cũng chính vì những điều đó làm cho tâm linh, danh tiếng của chúng ta bị lu mờ, tài năng sẽ không còn người đời chú ý trọng dụng. Đạo sĩ Kim Kang Ta nói: Thầy thuốc và thầy bùa đều là người chữa bệnh, luôn được mọi người, mọi giới tôn trọng vì có lương tâm và đạo đức cao cả. Nhưng cũng dễ đánh mất lương tâm đạo đức hơn cả. II - LỜI THỀ KHI THỌ GIÁO Người theo ngành nghề y học, bùa chú, thiên linh, ngải linh, v.v.… là những học thuật đều có những lời thề do mỗi trường phái đặt ra… nội dung là những sự cam kết không làm việc sai phạm đạo đức, chuyên môn, làm tổn hại đến tiền của và thân mạng người khác. Lời thề là đạo rất linh thiêng luôn được người có lương tri, tâm đức tôn trọng, nhưng đối với kẻ tà tâm, gian ác thì hay khinh thường. Người hành nghề bùa chú mà không nêu cao tâm đức thì luật pháp quốc gia sẽ khó dung, ảnh hưởng đến con cháu ngàn đời sau phải sống kiếp sống ê chề đen tối… Trong Bí Tắc Kim Cang Công Phu có 99 điều thề. Tùy theo công năng của mỗi bài học vị sư phụ sẽ chọn ra từ 01 đến 99 điều thề truyền dạy người học trò. Mỗi câu thề có năng lực tâm linh rất cao, tác động sự linh ứng rất mạnh, vì vậy người giữ đứng lời đã thề khi thực hiện các phép thần bí đều có hiệu quả rất lớn. Nếu về sau, người sai phạm lời đã thề trước linh đàn thì những khả năng đã có sẽ không còn linh nghiệm nữa và bản thân mắc nhiều thứ bệnh đau khó chữa trị, hay gặp những tai nạn khôn lường… Lễ vật đặt trên linh đàn: hai ngọn nến, ba cây nhang, một ly nước trong và một cành hoa duy nhất (không kể loài), với một tấm lòng thành kính, đó là đã đầy đủ đại lễ. Hãy ghi nhớ câu: “Thánh tổ thì không đặt điều, riêng thầy hay bày lễ vật.” III - 99 Điều thề trong Bí Tắc Kim Cang Công Phu Khi vị sư phụ truyền dạy mỗi bài trong Bí Tắc Kim Cang Công Phu cho các học trò đều phải chọn ra các điều thề sau đây để điền vào chỗ trống trong Bài nguyền trước linh đàn. Nếu được truyền nhiều bài thì điều thề càng tăng lên… 99 điều thề như sau: 1- Luôn hòa đồng, vui vẻ với mọi người và biết học hỏi cái hay của người khác. 2- Phải hiếu kính ông bà, cha mẹ, thầy tổ. 3- Phải thờ cúng tổ tiên, tổ nghiệp 4- Anh em hòa thuận, láng giềng thân giao. 5- Chăm sóc, gánh vác công việc gia đình. 6- Kính trọng họ hàng, người lớn tuổi, bạn bè. 7- Sẵn lòng giúp người bị hại hay gặp nạn. 8- Giúp người nghèo khó, tàn tật. 9- Không bất hiếu. 10- Không phản thầy. 11- Không hại bạn. 12- Không sai phạm pháp luật nhà nước. 13- Không khinh chê tôn giáo, các phầm âm… 18- Không khinh chê các môn học khác. 19- Không hủy hoại kinh sách, bút mực, hình tượng. 20- Không gây mâu thuẩn với các môn phái khác. 14- Không đập phá am miếu, đình chùa… 15- Không đội khăn, nón và mang giày, dép vào đền chùa… 17- Không lấy từng cái bánh, trái cây trên bàn thờ cúng…xuống ăn. 16- Không hỉ mũi, khạc nhỗ bừa bãi. 21- Không khinh rẻ người tàn tật, nghèo khó.
22- Không cười chê người bệnh tâm thần. 23- Không nói dối, nói xấu người khác. 24- Không làm ly tán tình cảm người khác. 25- Không cưỡng bách đàn bà và con gái. 26- Không giao hợp với gái có chồng. 27- Không cướp vợ, bắt con người khác. 28- Không hù dọa người. 29- Không lừa gạt, lừa bịp người. 30- Không hại người cô thân, sức yếu… 31- Không lợi dụng người quá sức lao động. 32- Không a dua, bức hiếp, giết người. 33- Không tham lam, gian dối, xảo trá. 34- Không trộm cắp, cướp giựt, móc túi. 35- Không chiếm đoạt tài sản người khác. 36- Không cờ bạc, uống rượu, hút thuốc, tà dâm. 37- Không dùng hay liên quan với ma túy. 38- Không bảo kê, mua bán, môi giới gái mại dâm. 39- Không tắm dưới sông, biển. 40- Không tắm ngoài trời mưa. 41- Không thề nguyền linh tinh… 42- Không la hét lúc mưa giông và giữa trưa 43- Không chửi rủa người khác 44- Không đánh chửi vợ con. 45- Không phá tán tài sản gia đình và của người khác. 46- Không nhìn, nghe chuyện của người khác. 47- Không cải hoặc đánh nhau với người khác. 48- Không vừa đi vừa chạy. 49- Không đi qua dưới đầu võng. 50- Không đi qua dưới dây – sào phơi đồ. 51- Không ra khỏi nhà lúc giờ ngọ và tý. 52- Không để cho người đi trước – sau đạp lên bóng mình 53- Không gác chân lên cao lúc đứng, ngồi, nằm. 54- Không nằm ngồi tênh hênh. 55- Không tiểu tiện lúc đứng. 56- Không ăn, nói lớn tiếng. 57- Không nói nhảm, cười giởn vô ý. 58- Không nói tục tĩu, chửi thề. 59- Không chửi thầm hay nói thầm. 60- Không nói chuyện lúc đang ăn uống. 61- Không ăn uống đổ tháo. 62- Không ăn đêm (sau lúc mặt trời lặn). 63- Không ăn đồ thừa. 64- Không ăn đồ cúng vong quỉ, cô hồn các đảng - quỉ ma hay phá hại con người… (cửu quyến thất tổ, thân thuộc không phải là hàng vong quỉ)… 65- Không ăn quả chuối có hột. 66- Không ăn quả có dấu gậm nhắm. 67- Không ăn quả rụng. 68- Không ăn quả dính đôi. 69- Không ăn quả lép, đèo. 70- Không ăn quả khế, bầu, bí đao. 71- Không ăn hành, hẹ, tỏi, xả, riềng, rau diếp cá.
72- Không ăn thịt trâu, bò, voi, ngựa, hổ (cọp). 73- Không ăn thịt chó, khỉ. 74- Không ăn thịt mèo, thỏ. 75- Không ăn thịt rùa, ba ba, sam. 76- Không ăn thịt trăn, rắn. 77- Không ăn thịt lươn, lịch, ếch, cóc, nhái. 78- Không ăn thịt các loài chim và con dơi. 79- Không ăn thịt sống như nem chua, gỏi cá, bê thui, v.v. 80- Không ăn con tầm, ong non. 81- Không ăn các loại trứng như tôm, cá, gà, vịt, v.v… 82- Không ăn các trứng lộn như gà, vịt, cút, chim, v.v… 83- Không ăn cá chép, cá đuối, cá không vảy. 84- Không ăn uống tiết động vật. 85- Không uống rượu có ngâm xác động vật. 86- Không ăn phần đầu gà, vịt, chim… 87- Không ăn phần đuôi cá và phao câu gà, vịt… 88- Không ăn nội tạng động vật. 89- Không ăn nhau thai và bào thai động vật. 90- Không ăn con vật khi thấy đang giết mổ. 91- Không ăn con vật chính mình bảo giết. 92- Không ăn con vật khi chết đang mang thai. 93- Không ăn 12 con giáp… 94- Không giết (chim) mẹ bắt lấy (chim) con… 95- Không bắt lấy (dê) mẹ bỏ (dê) con còn quá nhỏ. 96- Không chọc ghẹo động vật. 97- Không phá hang, tổ động vật. 98- Không bỏ đói khát những súc vật. 99- Không có lý do mà đánh đập hoặc giết động vật... Kim châm công IV - LỜI NGUYỀN TRƯỚC LINH ĐÀN Ngưỡng vọng Tiên sư, Tổ sư, Tam giáo đạo sư cảm ứng chứng chiếu: Hôm nay ngày…… tháng…….. năm …………........ Nhằm ngày………. thángAL…… ..năm………….. Đệ tử tên họ ………………………………………... Bí danh……………………………………………... Sinh ngày……….tháng………. năm ……………… Nhằm ngày……..tháng………. .năm ……………… Số CMND:...............................Ngày và nơi cấp........ Số điện thoại:............................................................ Quê quán…………………………………………… Hiện cư ngụ………………………………………… Tên họ cha………………………………………….. Tên họ mẹ…………………………………………... Đệ tử xin sư phụ…………………………………… Truyền cho bài .……………………………………. Đệ tử nguyện suốt đời giữ đúng các “lời nguyền trước linh đàn” và đem môn học ra cứu dân giúp đời không cầu danh lợi... (đưa hai bàn tay lên cao khỏi đầu đọc lớn)
10 LỜI NGUYỀN 1. Đệ tử nguyền ăn chay mỗi tháng 2 ngày: mùng một và ngày rằm ( người Châu Âu ngày 01 và 15 DL). 2. Đệ tử nguyền hiếu thảo với ông bà, cha me. Không phản thầy, hại bạn (mọi người đều là bạn). 3. Đệ tử nguyền không khinh chê môn học khác, nói xấu người khác. 4. Đệ tử nguyền giữ gia đạo hòa thuận, vợ chồng không đánh chửi nhau, anh em thương yêu lẫn nhau, sống hòa đồng với mọi người. 5.Đệ tử nguyền không ăn thịt: Trâu, Chó, Mèo, rau Diếp Cá, quả Khế. 6. Đệ tử nguyền không đi qua dưới đầu võng, dây hoặc sào phơi quần áo. 7. Đệ tử nguyền không uống rượu đến say xỉn. 8. Đệ tử nguyền không cờ bạc, liên quan ma túy. 9. Đệ tử nguyền không gian tham, trộm cắp, cướp giựt, giết người, mua bán phụ nữ, trẻ em 10. Đệ tử nguyền không đồng tính luyến ái. CHƯƠNG BỐN 40 PHÁP CÔNG PHU ĐỨC THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN DẠY: ''Trong lúc vẽ bùa, niệm chú phải cầu khẩn Tam vị thánh tổ luôn gia hộ hoặc tưởng nhớ đến ông thầy đã dạy cho mình đang đứng trước mặt, không được để tâm nghĩ đến tiền của, vật thực, nữ nhân hay có tà ý khác.” Bài 1 - Thần Châm Công Án Ma Lỗ Vạn bệnh sở thân Thần Châm nhất quá Cấp tán cấp tiêu Vạn sự bình an Cấp cấp như Kim Cang tiên sư luật lệnh – Sắc. * Thần chú này, giúp dùng kim châm nhẹ trên thân thể, để chữa trị rất nhiều thứ đau bệnh, tà khí, tà hành, quỷ ám, v.v… thật linh nghiệm. Bài 2 – Kim Châm Công Án Ma Lỗ Kim châm nhập nhục Chỉ huyết, trừ ung, bất đông, bất thống Cấp cấp như Kim Cang tiên sư luật lệnh – Sắc. * Thần chú này, giúp tự dùng kim băng đâm vào thân thể từ một đến hàng trăm cây, để chữa bệnh tim mãn tính, có tính nhút nhát, thiếu tập trung, hoặc vết thương không lành, đang viêm sưng, đau nhức… Bài 3 – Xuyên Châm Công A - Hắc rá tạ Đẫm bà há Diêu thụ dạ B - An Ma La Kim cang ta Đa ba ha Di tu da C – An Ma La Kim cang ta
D – Chu đa so ha. E - Ma hồng. * Những thần chú này, tuỳ thuộc vào sư phụ truyền dạy mà công năng thấp hay cao đều khác nhau… giúp dùng sắt nhọn đâm xuyên qua thân thể hay đóng đinh vào người trong ngày lễ hội dâng cúng thần linh khiến tà ma nhìn thấy liền bỏ chạy thật xa... Còn chữa được các bệnh hay chảy máu, u tụ máu, các chứng viêm, sưng, đau nhức, vết thương nhiễm trùng, vết loét do bệnh tiểu đường, làm mau liền da, bệnh tim mạch mãn tính, những người thường kinh sợ, nhút nhát… Bài 4 - Ngũ Bổn Thần Công Án Ma Lỗ Nam mô đại bổn đầu công Nam mô nhị bổn đầu công Nam mô tam bổn đầu công Nam mô tứ bổn đầu công Nam mô ngũ bổn đầu công Hộ trì đệ tử ……… Thân thể quang minh Nhất hô bá ứng Trừ tà diệt quỷ Sứ sở an ninh Kim Cang Ta ma ha. * Thần chú này, giúp dùng trái chông có rất nhiều gai bằng sắt thật bén nhọn, đánh vào thân thể bệnh nhân, để trừ tà diệt quỷ. Chữa trị các bệnh quỷ ám đã dùng nhiều thứ thuốc từ lâu mà không khỏi. Bài 5 – Lưu Kim Nội Nhục Công Án Ma Lỗ Thiên kim thần châm An định nội thân Bất sanh thủng độc Bất hành đông thống Hộ mạng bảo an Lệnh xuất tự nhiên Nhất kim xuất Nhị kim xuất Tam kim xuất Cấp cấp như Kim cang tiên sư luật lệnh – Sắc. * Thần chú này, giúp đặt kim khâu trong thân thể từ 06 – 1.000 cây, khiến cho thân thể phát ánh sáng, có những công năng đặc dị, quyền lực phi thường và để trị những bệnh do tà ma phá hại. Bài 6 - Câu Thân Thăng Thiên Công An Ma La Kim cang ta Tá ra mê hô Tam đề lôi kinh * Thần chú này, giúp dùng móc sắt móc vào thân thể người sống treo lên cành cây, dâng cúng lên thần linh 21 ngày... cũng là pháp luyện tinh thần dũng cảm, giúp cơ thể tăng hệ miễn dịch rất cao, cơ thể khoẻ mạnh, tâm trí sáng suốt và khiến cho bọn tà ma nhìn thấy liền bỏ chạy không dám đến gần. Bài 7 – Bí Tắc Thần Công An Ma La Kim Cang ta Ta ba ha
SINH - SÁT * Thần chú này, giúp sự tập trung tư tưởng cao độ, để chữa tất cả các loại bệnh do ma tà phá hại. Giúp điều chân chánh còn mãi việc gian dối biến mất (chánh tồn tà diệt), khiến kẻ gian ác hay người lầm lở tự biết lỗi mà trở về nẽo chân chánh, thành người hiền lương thường làm những điều nhân đức (cải tà quy chánh). Bài 8 - Quá Hoả Diệm Sơn Công Án Ma Lỗ. Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nam mô Thanh Lương Địa Bồ Tát. Hoả Diệm hoá hồng liên. Kim Cang Ta ma ha - So ha. * Thần chú này, giúp các bệnh nhân đi trên bải lửa than dài từ 4 - 8 m đang cháy đỏ, để chữa trị các bệnh tà hành quỷ ám kinh niên, những người có các loại bệnh đau không rõ nguyên nhân… Bài 9 – Thượng Toà Đao Kiếm Công Án Ma Lỗ Kim cang ta Tăng ga tăng ga Mi lô tăng ga. * Thần chú này, giúp người đứng, ngồi và nằm trên lưỡi đao kiếm không bị hại, để trấn trừ các yêu tinh, quỷ quái thường tụ tập gây ra âm khí phá an dân lành. Bài 10 – Mộc Dục Hoả Du Công Án Ma Lỗ Kim cang ta Tu ma la hê Hộ ta sát đa. * Thần chú này, giúp người bệnh tắm dầu sôi khiến cho cơ thể trong sạch, tâm linh càng sáng ngời, ma tà khi thấy nghe đến họ tên đều khiếp sợ, lánh xa. Bài 11 – Thượng Toà Bình An Công Án Ma Lỗ Kim cang ta Ma đề ca la Tát bộ bà na. * Thần chú này, giúp người đứng, nằm, ngồi trên mũi đao kiếm, bàn chông, mảnh chai (thuỷ tinh) không bị hại và khiến cho ma tà không dám xâm phạm. Bài 12 – Kim Cang Thân Công Án Ma Lỗ Kim cang ta Phệ ma tá ha Úm bà la đốt. * Thần chú này, giúp cho thân thể thật khỏe mạnh và cứng chắc (gồng), có thể dùng các vật đập vào người hay dây sắt quấn quanh mà không thể tổn hại... và khiến cho tà ma không dám khinh thường. Bài 13 – Kim Tư Thần Công An Ma La Kim cang ta
Ca tê ca tê Da du cam hê. * Thần chú này, giúp dùng một sợi chỉ thật nhỏ (chỉ may áo) kéo những phẫm vật của Quốc vương như xe chở trâu, dê, cừu và thật nhiều thứ hàng hóa, vật thực quý giá dâng lên cúng bái thần linh, trong các lễ hội và khiến cho tà ma khiếp sợ. Bài 14 – Thần Lực Công An Ma La Kim cang ta Ma đa la sất Ma mi la sất Ma ta la sất Ma cha la sất Hô lê đốt đốt. * Thần chú này, giúp người có sức mạnh vô địch, chiến thắng kẻ ác, khiến cho tà ma nể sợ. Bài 15 – Phạt Khô Mộc Công An Ma La Kim cang ta Ti lôi đăng nam Đà lục mô liêu cha Tây tê ra bà ha. * Thần chú này, giúp dùng bàn tay chẻ gỗ, bửa củi, thể hiện sự oai lực khác thường của thần linh, khiến cho tà ma phải kính phục không dám quấy nhiểu. Bài 16 – Thượng Đàn Chỉ Vũ Công An Ma La Kim cang ta Siêu ty cô mi Tá ra tư đa. * Thần chú này, giúp người vũ công đứng trên tờ giấy mỏng, múa hát dâng cúng trò vui lên thần linh trong buổi lễ hội và tà ma cũng thêm vui vẻ không phá tán dân lành. Bài 17 – Sương Giáng Công An Ma La Kim cang ta Ti nê măng ta Ma thi ta cam Rực ma na lô. * Thần chú này, giúp làm sương rơi để tắm rửa cho dân chúng trước khi vào lễ hội cúng bái thần linh, khiến cho bọn tà ma tiêu tán. Bài 18 – Phong Vũ Công An Ma La Kim cang ta Bồ đề la mát Mang mang âm âm Phất phất hồng hồng. * Thần chú này, giúp cho mưa to, gió mạnh hơn, khiến cho tà ma khiếp sợ tìm nơi trú ẩn không phá hại dân lành.
Bài 19 – Hàn Lãnh Công An Ma La Kim cang ta Um già tát đa Phất ma phất ma Kia ba rê la am. * Thần chú này, giúp những đồ vật dâng cúng thần linh luôn giá lạnh, nên để lâu ngày không bị hư thối, cũng khiến cho tà ma không dám xuất đầu lộ diện phá tán nhân dân. Bài 20 – Hoả Nhiệt Công An Ma La Kim cang ta Khô ma hế ri Phù tô rê sa. * Thần chú này, giúp làm nơi trú ngụ của tà ma nóng lên, âm khí không còn nên tà ma phải bỏ đi chỗ khác, không dám trở lại phá tán dân lành. Bài 21 – Đoạt Hồn Công An Ma La Kim cang ta Lê hê chi nao Nu ma nê ra Yêu thu mi nô. * Thần chú này, làm cho người bất tỉnh không còn nhận biết thứ gì, khiến cho tà ma không nhập vào bệnh nhân quậy phá được nữa mà phải bỏ chạy trốn mất. Bài 22 – Bất Đông Thống Công An Ma La Kim cang ta Mạ tô li ná Bồ tê rá ma. * Thần chú này, chữa trị các chứng đau nhức lâu ngày do tà ma phá hại và khiến cho tà ma phải khiếp sợ bỏ đi nơi khác. Bài 23 – Cử Quyền Công An Ma La Kim cang ta Ha lê ha lê Ma lô ma lô Phất mô du lê. * Thần chú này, giúp tay chân hoạt động bình thường, chữa tay chân bị tê liệt không hoạt động do tà ma phá hại và khiến cho tà ma phải khiếp sợ. Bài 24 –Thoát Thần Công An ma la Kim cang ta Đa ni lôi mê Bồ lam cam ham. * Thần chú này, giúp người nhịn ăn lâu ngày để tu luyện các pháp cao siêu, điều khiến ngũ tạng, lục phủ và năm giác quan đi vào trạng thái không hoạt động rất lâu dài (thoát thần hay vô thức), khiến cho các loại yêu tinh, tà ma nhìn thấy đều phải kính phục quy hàng.
Bài 25 – Thôi Xa Công An Ma La Kim cang ta Sất đa bá lê Sất đa sam nây. * Thần chú này, giúp kéo xe chở lễ vật thật to lớn, rất nặng của giúp Quốc vương lên núi cao dâng cúng thần linh, khiến cho tà ma khiếp sợ. Bài 26 – Hạ Thuyền Công An Ma La Kim cang ta Kệ ma la kệ ma la Hô hồng hồng, hô nhiếp nhiếp. * Thần chú này, giúp đưa thuyền, đẩy ghe mới của Quốc vương xuống sông, khiến cho tà ma phải tránh xa. Bài 27 – Khởi Xa Thượng Thân Công An Ma La Kim cang ta Một đi nê luân Ta năng liêu liêu Ma nô tao tao. * Thần chú này, giúp người vượt qua tai nạn do xe và ngựa chạy cán, đạp lên thân thể, khiến cho tà ma phải khiếp sợ. Bài 28 – Hàng Ti Nhất Điểm Công An Ma La Kim cang ta Nê kít ta kít ta Rực na rực na hô. * Thần chú này, giúp thân thể bình an không bị tổn thương khi những vật bén và nhọn đâm vào, khiến cho tà ma khiếp sợ không dám động chạm đến và phải bỏ di nơi khác. Bài 29 – Thiết Bối Sam Công An Ma La Kim cang ta Hốt mật phù tum Kim đam tô sam. * Thần chú này, giúp lưng cứng như sắt, cơ thể đủ sức chịu đựng khi các vật nặng đè ép, khiến cho tà ma phải khiếp sợ. Bài 30 – Thiết Đầu Công An Ma La Kim cang ta Huệ đa huệ đa Di đa mê tông. * Thần chú này, giúp đầu cứng như sắt, khiến cho tà ma phải khiếp sợ tránh xa nơi khác. Bài 31 – Nhập Linh Công An Ma La Kim cang ta Kiều đề ma linh
Ma la - So ha. * Thần chú này, giúp đặt tượng Phật hoặc vật linh vào thân thể, khiến cho tà ma phải kính phục. Bài 32 - Nhập Thuỷ Công An Ma La Kim cang ta Cư tá du hê Bồ na li tênh. * Thần chú này, giúp người đi qua sông không bị nạn, hay ngồi nằm trong nước sâu hàng giờ, khiến cho tà ma đều khiếp sợ. Bài 33 – Kiến Phụ Mẫu Công - Tắm rửa sạch sẽ rồi ngồi thiền định, niệm danh hiệu Phật hoặc thần chú sau đây: 1 - Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. 2 - An Ma La Kim cang ta A đa lô ca Ma rim tá na. - Thiền định được một ngày một đêm thì thình lình xuất thần đi… * Các Thần chú này, giúp người có lòng hiếu thảo nhìn thấy hương hồn của cha mẹ, những người thân hoặc các vong linh còn đang phiêu bạt và hài cốt xiêu mồ lạc mã, khiến cho bọn quỷ ma đều kính phục. Bài 34 – Phá Xiềng Công An Ma La Kim cang ta Phất nhi nam ra Bà tu dá na Bồ ca nhiếp. * Thần chú này, giúp người tỉnh trí, thoát khỏi sự nguy khốn do tà ma dẫn đem cất giấu, giam cầm... và khiến cho tà ma phải khiếp sợ nát tim, tan mật. Bài 35 – Phi Hành Công An Ma La Kim cang ta Hoá mộc phong Tốc lực tốc lực Kha du ha la. * Thần chú này, giúp người đi rất nhanh, khiến cho tà ma kinh sợ một lòng quy phục. Bài 36 – Ẩn Thân Công An Ma La Kim cang ta Phạt mê đạt ra Ma li dạ na Bồ ca nhiếp. * Thần chú này, giúp người ẩn mình để tránh khỏi những nạn tai do tà ma vây khốn, và khiến cho chúng phải kính phục. Bài 37 – Hiện Thân Công An Ma La
Kim cang ta Cha ra mô tăng Hê li pha um Ma ha nhiếp nhiếp. * Thần chú này, khiến có người tự nhiên đến và đem những niềm vui giúp ích mọi nhà không còn sự buồn phiền, luôn thương yêu nhau và có những hạnh phúc. Khiến cho tà ma phải bỏ đi nơi khác. Bài 38 – Thần Chú Tàng Hình Nguyện chư bổn tôn hộ độ cho con.............trì tụng chú hộ thân, đi đường bình an. Om mi la za, Om mi la za. Soha. * Thần chú này, có tác dụng hộ thân, giúp người có những công năng đặc dị và thượng lộ bình an. Khiến cho tà ma không phá hại. Bài 39 – Phép ẩn thân Nam mô Ngọc Hoàng đại đế Án chúa ôn, Chúa địa trờ kỳ Che lấp đệ tử........ Cấp cấp như luật lệnh. * Thần chú này có công năng che dấu thân thể, người ngoài bước vào tìm kiếm không nhìn thấy... Thần chú Ẩn thân này do sư phụ: Nguyễn Đình Hùng. Pháp danh: Đức Khoan. Ở ngã tư Hòa Lân – Bình Dương truyền dạy... Bài 40- Phép trị bệnh đau toàn thân 1- Hết bệnh...(gan, tim, tỳ, phế, thận...) ngay! 2- Hết đau nhức...(khớp chậu, gối, tay, chân, xương sống, cổ...) ngay ! 3- Hết... (viêm sưng, zona, quay bị...) ngay ! * Thần chú này, có công năng phi thường, chữa lành mọi thứ bệnh trong ngoài cơ thể và đau nhức các xương khớp. + Cách dùng: Tùy theo bệnh khác nhau, nên dùng một câu chú phù hợp. Lấy hủ vôi đang ăn trầu... Lấy một chiếc đủa ăn đã cũ... Dùng đầu đủa ăn chấm vào hủ vôi, khoán vòng tròn vào bên ngoài chỗ đau 3 lần và quẹt vào chỗ đau xuống 3 lần. Lưu ý: Mỗi vòng phải chấm vôi một lần và mỗi quẹt cũng phải chấm vôi một lần. PHẦN THAM KHẢO LÃO TỬ: (*) Lão: Già, ông già. Tử: thầy. Đức Lão Tử là Giáo chủ của Lão giáo (Tiên giáo ). Đức Lão Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Tổ giáng trần vào thời nhà Thương bên Tàu. Đức Thái Thượng Đạo Tổ, còn gọi là Đức Thái Thượng Đạo Quân, là Đấng do khí Tiên Thiên hóa sanh thuở chưa tạo Thiên lập Địa. Tiên Thiên Khí hóa, Thái Thượng Đạo Quân. (Kinh Tiên giáo) Đức Thái Thượng Đạo Tổ là Ông Thủy Tổ của Đạo Tiên. Ngài có pháp lực vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cõi trần để độ những người có duyên phần, khi trở về cõi Thượng Thiên. Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh, Đức Thái Thượng hiện xuống cõi trần rất nhiều lần, kể ra sau đây: ■ CỬU THIÊN HUYỀN NỮ (*) Cửu Thiên Huyền Nữ - Cửu Thiên Nương Nương: Cửu: Chín, thứ chín. Thiên: từng Trời. Huyền: sâu kín, huyền diệu, mầu nhiệm. Nữ: người phụ nữ.
Nương Nương: tiếng gọi bà Hoàng Hậu ở thế gian; còn nơi cõi thiêng liêng, Nương Nương là tiếng gọi người phụ nữ cao trọng nhứt, đó là Ðức Thiên Hậu, Ðức Mẫu Hậu mà Ðạo Cao Ðài thường gọi là Ðức Phật Mẫu. Cửu Thiên là từng Trời thứ 9, từng Trời cao nhất trong Cửu Trùng Thiên, có tên là Tạo Hóa Thiên. ■ Cửu Thiên Huyền Nữ, nghĩa đen là người phụ nữ huyền diệu nơi từng Trời thứ 9. Ðây là một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu. ■ Cửu Thiên Nương Nương, nghĩa đen là Ðấng Thiên Hậu ở từng Trời thứ 9. Ðây cũng là một danh hiệu của Ðức Phật Mẫu. Nhơn loại được biết Ðức Phật Mẫu qua danh hiệu Cửu Thiên Huyền Nữ vào thời thượng cổ, đời vua Hiên Viên Huỳnh Ðế bên Tàu. Sử ký chép như sau: Sau đời vua Thần Nông, các bộ lạc đều tự tách ra hùng cứ mỗi nơi. Có một bộ lạc hùng mạnh mà vị thủ lãnh là Xuy Vưu muốn thôn tính các bộ lạc khác để lên làm bá chủ, nhưng Xuy Vưu lại quá độc ác, ai không thuận theo thì bị giết chết rất tàn nhẫn. Các bộ lạc liền liên kết nhau, tôn vị thủ lãnh Hữu Hùng Thị (nay ở huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam) lên chỉ huy chống lại Xuy Vưu. Trận đánh dữ dội quyết định sự thắng bại với Xuy Vưu xảy ra ở Trác Lộc. Sương mù dày đặc, quân Hữu Hùng Thị bị Xuy Vưu vây chặt, không nhận định được phương hướng đánh ra giải vây, nên thường bị Xuy Vưu đánh bại phải tháo lui. Sự thảm bại của Hữu Hùng Thị thấy rõ trước mắt. Trong lúc nguy cấp như thế, Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ hiện ra dạy Hữu Hùng Thị chế ra xe hai bánh chỉ Nam, có bộ phận chỉ rõ hướng Nam, để phân định phương hướng và vị trí tiến quân, lại dạy cho binh pháp. Nhờ vậy, Hữu Hùng Thị củng cố binh mã, từ trong đánh ra bất ngờ, làm cho binh đội Xuy Vưu thảm bại, bắt sống được thủ lãnh Xuy Vưu đem giết chết. Thế là yên giặc, tất cả dân chúng các bộ lạc đều hoan nghinh Hữu Hùng Thị, tôn Hữu Hùng Thị lên ngôi Minh chủ, lấy hiệu là Hoàng Ðế hay Huỳnh Ðế. Nguyên Hữu Hùng Thị được sanh ra tại gò Hiên Viên, nên về sau gọi là Hiên Viên Huỳnh Ðế. Sau đó, Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ cũng thường ứng hiện giúp vua Huỳnh Ðế và những người hiền tài trong nước, như giúp Hoàng Hậu Nguyên Phi chế ra nghề nuôi tằm lấy tơ dệt lụa, giúp ông Dung Thành chế ra máy Cai Thiên để xem Thiên tượng, giúp ông Thương Hiệt chế ra chữ viết tượng hình để thay cho việc thắt nút ghi nhớ các sự việc. Ngoài ra Ðấng Cửu Thiên Huyền Nữ truyền khoa Lục Nhâm Ðộn Giáp, và phép bói 64 quẻ Dịch mà đoán kiết hung... Diêu Trì Kim Mẫu (*) - Phật Mẫu Diêu Trì: Kim Mẫu: là từ nói tắt của danh hiệu: Kim Bàn Phật Mẫu, nghĩa là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu chứa các nguyên chất để tạo ra chơn thần cho vạn linh. Đây là hai danh hiệu của Đức Phật Mẫu. * Diêu Trì Kim Mẫu là Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. * Phật Mẫu Diêu Trì là Đức Phật Mẫu ở Diêu Trì Cung. Đức Phật Mẫu là ai? Quyền năng của Đức Phật Mẫu Sự tích: Hớn rước Diêu Trì I. Đức Phật Mẫu là ai? Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài, khi chưa có Trời Đất, còn trong thời kỳ Hỗn Mang hay Hồng Mông, trong vũ trụ chỉ có một chất khí hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hợp, nhưng vô cùng huyền diệu, gọi là Khí Hư Vô (còn gọi là Tiên Thiên Hư Vô chi Khí). Khí Hư Vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến vạn hóa, vô tận vô cùng. Vũ trụ từ đây bắt đầu có một ngôi Thái Cực duy nhứt, là Đại Hồn của một Đấng duy nhứt được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chúng ta thường gọi là Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương Quang và Âm Quang. Đức Chí Tôn chưởng quản Khí Dương Quang, còn Khí Âm Quang chưa có ai chưởng quản, vì Càn khôn Vũ trụ lúc bấy giờ chỉ có một mình Đức Chí Tôn mà thôi. Đức Chí Tôn mới hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản Khí Âm Quang. Vậy, nguồn gốc của Đức Phật Mẫu là một hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn để làm chủ Khí Âm Quang, cầm phân nửa quyền lực của Đức Chí Tôn và luôn luôn tùng theo mạng lịnh của Đức Chí Tôn. (Khi Đức Chí Tôn tạo dựng ra Càn khôn Vũ trụ tới đâu thì Đức Chí Tôn tiếp tục hóa thân ra các Đấng khác để chưởng quản tới đó). Vũ trụ tới đây đã có 2 khối chất khí vĩ đại là Dương Quang và Âm Quang, và có 2 Đấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn Vũ trụ là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu. Sau đó, Đức Phật Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn, thâu lằn sanh quang của ngôi Thái Cực, rồi đem Âm Quang phối hợp với Dương Quang để tạo hóa ra các từng Trời, các quả Tinh cầu và các Địa cầu, tạo thành Càn khôn Vũ trụ. Tiếp theo, Đức Phật Mẫu tạo hóa ra Vạn linh nơi cõi Thiêng liêng vô hình. (Vạn linh gồm đủ Bát hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn). Rồi Đức Phật Mẫu lại cho Vạn linh đầu kiếp xuống các Địa cầu tạo thành Vạn vật, tức là Chúng sanh. (Chúng sanh gồm: Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại). PMCK: Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh. * Mỗi một người nơi cõi thiêng liêng đều có 2 thể: • Một Chơn linh, tức là Linh hồn, do Đức Chí Tôn ban cho. Chơn linh nầy chỉ là một điểm Linh quang do Đức Chí Tôn chiết ra từ khối Đại Linh quang của Ngài, ban cho mỗi người để con người có được Tánh linh, có được sự sống và biết gìn giữ sự sống ấy. • Một Chơn thần, tức là một Xác thân thiêng liêng hay Hình hài thiêng liêng, do Đức Phật Mẫu tạo ra và ban cho để làm hình thể vô vi, bao bọc Chơn linh. Do đó, con người nơi cõi thiêng liêng gọi Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ, gọi Đức Phật Mẫu là Đại Từ Mẫu. Ấy là 2 Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng vĩ đại nơi cõi Hư linh. Khi con người ấy đầu kiếp xuống cõi phàm trần thì Chơn linh và Chơn thần của người ấy liền nhập vào thai nhi ngay lúc được sanh ra từ trong bụng bà mẹ phàm trần. Vậy: * Một con người nơi cõi phàm trần có 3 thể: • Chơn linh (đã giải ở trên) do Đức Chí Tôn ban cho. • Chơn thần (đã giải ở trên) do Đức Phật Mẫu tạo ra. • Xác thân phàm trần do cha mẹ phàm trần tạo ra. Như thế, một con người nơi cõi phàm trần, ngoài hai Đấng CHA MẸ chung thiêng liêng, còn có thêm hai vị cha mẹ phàm trần nữa. Tóm lại, toàn cả chúng sanh trong CKVT hay toàn cả Vạn linh, đều là con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, dầu cho đó là những vị Phật cao siêu như Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di-Lạc, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Chúa Jésus, vv...Tất cả đều là con cái của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu. Hiện nay, Đức Phật Mẫu ngự tại Cung Diêu Trì, ở từng Trời Tạo Hóa Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên. Theo DLCK, Đức Phật Mẫu cùng các vị Phật: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, với Cửu vị Nữ Phật, và hằng hà sa số chư Phật khác, thường đi đến các cõi trần để dưỡng dục chúng sanh qui nguyên Phật vị. Đức Phật Mẫu được nhơn loại tôn xưng bằng nhiều danh hiệu khác nhau, tùy theo tín ngưỡng tôn giáo, dân tộc và địa phương, kể ra như sau đây: • Phật Mẫu, vì là MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh và Chúng sanh. • Diêu Trì Kim Mẫu, vì Đức Phật Mẫu ngự tại DTC. • Kim Bàn Phật Mẫu, vì Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn nơi Diêu Trì Cung. • Cửu Thiên Huyền Nữ, vì Đức Phật Mẫu rất huyền diệu, ngự tại từng Trời Tạo Hóa Thiên là từng thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên. • Đức MẸ thiêng liêng, • Đại Từ Mẫu,
• Thiên Hậu, • Địa Mẫu, • MẸ sanh. • Đạo Cao Đài tôn thờ Đức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nhì; còn NGÔI DƯƠNG là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức Ngôi Thứ Nhứt. Đây là một Triết lý hết sức mới mẻ và đúng đắn mà từ trước tới nay các tôn giáo chưa từng có. Họ chỉ biết thờ Ngôi Dương mà thôi. Việc thờ phượng Đức Phật Mẫu hiện nay của Đạo Cao Đài còn tạm đặt tại Báo Ân Từ trong Nội Ô TTTN, vì Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương chưa xây dựng. Chừng nào Hội Thánh xây dựng Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì sẽ chánh thức thờ Đức Phật Mẫu tại đó và trả lại Báo Ân Từ làm đền thờ các bậc vĩ nhân có đại công với nhơn loại và các bậc tiền bối có đại công với Đạo, để hậu sanh tỏ lòng biết ơn theo đúng chức năng của nó như tên gọi Báo Ân Từ (nhà thờ báo ơn). II. Quyền năng của Đức Phật Mẫu: Quyền năng to lớn của Đức Phật Mẫu được cho biết trong hai bài kinh: Phật Mẫu Chơn Kinh và Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, và trong các bài Thánh Ngôn của Đức Phật Mẫu giáng cơ ban cho (Thánh Ngôn của Đức Diêu Trì Kim Mẫu có chép trong phần sau). Một số quyền năng của Đức Phật Mẫu được biết kể ra: ■ 1. Chủ Âm Quang: Đức Chí Tôn làm chủ Dương Quang, Đức Phật Mẫu làm chủ Âm Quang, nghĩa là Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu làm chủ phần Âm trong toàn cả CKVT. PMCK: Chủ Âm Quang thường tùng Thiên mạng. ■ 2. Chưởng quản Kim Bàn: Kim Bàn hay Kim Bồn là nơi Đức Phật Mẫu dùng chứa các nguyên chất để tạo Chơn thần (Xác thân thiêng liêng) cho con người nơi cõi thiêng liêng. KĐ9C: Nơi Kim Bồn vàn vàn nguơn chất, Tạo hình hài các bậc nguyên nhân. ■ 3. Chưởng quản Vườn Đào Tiên: Đức Phật Mẫu lập ra Vườn Đào Tiên và dùng các quả Đào Tiên ban thưởng cho các Chơn linh tu hành đắc đạo khi trở về cõi Thiêng liêng Hằng sống. PMCK: Chưởng Đào Tiên thủ giải trường tồn. KĐ2C: Tây Vương Mẫu vườn Đào ướm chín, Chén trường sanh có lịnh ngự ban. Tiệc hồng đã dọn sẵn sàng, Chơn thần khá đến hội hàng chư linh. Hằng năm, đến kỳ Đào Tiên chín, Đức Phật Mẫu mở Hội Yến Bàn Đào nơi Diêu Trì Cung, dùng các quả Đào Tiên và Tiên tửu, đãi các Đấng Tiên Phật nơi cõi thiêng liêng. ■ 4. Tận độ nhơn sanh: Toàn cả nhơn loại, nhứt là 92 ức nguyên nhân đang còn trầm luân nơi cõi trần, đều là con cái thương yêu của Đức Phật Mẫu. Đức Phật Mẫu tận dụng các hình thức giáo hóa để cứu độ tất cả con cái của Ngài, đem trở về cõi thiêng liêng, giao cho Đức Chí Tôn phán định phẩm tước và ngôi vị. PMCK: Nghiệp hồng vận tử hồi môn, Chí Công định vị vĩnh tồn Thiên Cung. ■ 5. Chưởng quản Tạo Hóa Thiên: Tạo Hóa Thiên là từng Trời rất huyền diệu, cao nhứt trong Cửu Trùng Thiên. Theo DLCK: "Tạo Hóa Huyền Thiên hữu: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, dữ Cửu vị Nữ Phật, như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, tùng lịnh Kim Bàn Phật Mẫu, năng tạo năng hóa Vạn linh, năng du Ta-bà Thế giới, dưỡng dục quần sanh, qui nguyên Phật vị. Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, thính Ngã dục tu phát nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu dưỡng dục quần linh; nhược hữu sanh, nhược vị sanh, nhược hữu kiếp, nhược vô kiếp, nhược hữu tội, nhược vô tội, nhược hữu niệm, nhược vô niệm, huờn hư thi hình đắc A-Nậu Đa-La Tam-Diệu Tam-Bồ-Đề
xá lợi tử qui nguyên Phật vị, tất đắc giải thoát." Nghĩa là: Từng Trời Tạo Hóa Thiên huyền diệu có: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật, cùng với Chín vị Nữ Phật, như các cấp vô số Phật, tuân theo mạng lịnh của Đức Phật Mẫu chưởng quản Kim Bàn, có khả năng tạo hóa tất cả Chơn linh, có khả năng đi đây đi đó đến các cõi trần, nuôi nấng chăm sóc chúng sanh, trở về nguồn cội là ngôi vị Phật. Nếu như có người nam lành, người nữ lành, nghe theo lời Ta, muốn tu hành thì phát ra lời nguyện: Nam mô Kim Bàn Phật Mẫu nuôi nấng chăm sóc tất cả các Chơn linh ; nếu như có sanh ra, nếu như chưa sanh ra, nếu như có kiếp sống, nếu như không có kiếp sống, nếu như có tội, nếu như không tội, nếu như có lòng tưởng niệm, nếu như không có lòng tưởng niệm, trở lại cõi Hư Vô, thi hành đúng theo khuôn phép, được phẩm vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Chơn thần trở về nguồn cội là ngôi vị Phật, ắt được giải thoát. ■ 6. Quyền làm MẸ Vạn linh: Đức Phật Mẫu là bà MẸ thiêng liêng của toàn cả Vạn linh, mà Vạn linh thì gồm đủ Bát Hồn (tức là 8 phẩm Chơn linh) gồm: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. ............. ......... ............. -------------------------------------------------(*)(*)(*) Trích trong Cao Đài Từ Điển. HỒN NGAO DU TIÊN CẢNH Nam mô Phật Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam Mô Phật Mẹ Cữu Thiên Huyền Nữ... Mỗi đêm, khi Liên Nhã tôi vừa nằm xuống để chuẩn bị cho giấc ngủ thì đều thường niệm danh hiệu của các đấng bề trên như thế. Tôi niệm cho đến bao giờ ngủ quên mới thôi. Trong giấc ngủ, tôi thường hay nằm mơ thấy các bậc Tiên Thánh truyền dạy cho những bí pháp… Một hôm, tôi ngủ mơ thấy mình được Phật Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát và Phật Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ dẫn đi lên Điện Diêu Trì. Đi lên qua rất nhiều tầng mây… mỗi tầng mây là mỗi cảnh giới thật đặc biệt, lạ lùng và màu sắc thật xinh đẹp không thể tả hết. Khi đến tầng mây có đủ năm màu, mỗi màu mây đều toả sáng lung linh… Đi vòng qua nhiều toà lâu đài nguy nga rực rở, Phật Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ nói: - “Đã đến Điện Diêu Trì Kim Mẫu.” Tôi ngước mặt lên nhìn thấy: Trên cửa điện có tấm bảng thật lớn, sơn màu xanh lá cam thật tươi, quanh khung bảng có chạm khắc những hoa văn thật tinh xảo, nền bảng có chạm khắc những cụm mây nhỏ rải rác, đều sơn son thết vàng, giửa có ba chữ hán viết theo kiểu lệ tự: DIÊU TRÌ ĐIỆN, mỗi chữ to cở một mét vuông, bề dày của chữ cở 30 cm, được sơn son và phủ bằng vàng lá, sáng lấp lánh... Bước vào bên trong điện, tôi nghe tiếng nhạc êm dịu, du dương, trầm bổng, khiến đầu óc tôi thật vui tươi thanh thản, tâm hồn thanh thoát, bay bổng... Án trước bệ hành lễ là một đĩnh lư trầm bằng đồng đen, hình chữ nhật, ngang bốn mét, rộng hai mét, cao một mét hai mươi phân, có điêu khắc nhiều hình ảnh chim hoa thật tinh xảo. Mùi hương ngào ngạt từ đĩnh trầm bay toả ra bát ngát… Hai bên đĩnh trầm là hai con bạch tượng có cặp ngà dài chín mét, được tạc bằng bạch ngọc. Trên lưng mỗi con bạch tượng có một cây đèn bằng sáp vàng thật lớn, đường kính một mét hai mươi phân, cao ba mét sáu mươi phân đang cháy sáng rực, và còn rất nhiều thứ đồ vật khác trưng bày khắp nơi nơi... nhưng tôi nhìn thấy không rõ là những đồ vật gì, vì khói từ đĩnh lư trầm đang toả ra mù mịt. Lúc này tôi đang đứng giửa điện. Phật Mẹ Quan Âm và Phật Mẹ Cửu Thiên đứng ngang mặt nhau, trước tôi khoảng hai mét. Phật Mẹ Quán Thế Âm đứng phía bên phải của tôi, còn Phật Mẹ Cửu Thiên Huyền
Nữ đứng phía bên trái của tôi. Phật Mẹ Cửu Thiên Huyền Nữ bảo tôi quỳ xuống giửa tấm thảm nhung màu đỏ, có thêu hoa vân bằng chỉ kim tuyến màu vàng. Ngước mặt lên nhìn, qua màn khói mờ mờ, với khoảng cách chừng mười mét, tôi thấy Phật Mẹ Diêu Trì ngồi trên cao cách mặt đất khoảng bốn mét. Tôi không thể nhìn thấy rõ được nét mặt của Phật Mẹ Diêu Trì... chợt trong một bên tai của tôi nghe như tiếng của ai nói vào “Bà không cho nhìn thấy rõ mặt đâu; hoặc người âm muốn cho người dương nhìn thấy cái gì, thì chỉ thấy thứ đó thôi”. Tôi chỉ thấy Phật Mẹ Diêu Trì đội mão long phụng màu đỏ, có gắn hạt kim sa, ngân châu, ngọc bích, bạch pha lê, thanh pha lê, huỳnh pha lê, hồng pha lê, tử pha lê… màu sắc của các hạt đó đều chiếu sáng tua tủa khắp điện, thật lung linh huyền ảo! Phật Mẹ Diêu Trì mặc chiếc áo màu xanh lá cam có thêu những cụm mây bằng chỉ kim tuyến màu vàng lấp lánh, chiếc đai màu đỏ đoạn giửa có nạm một thẻ vuông bằng cẫm vân ngọc thạch. Tay phải đở gốc thanh bảo ngọc dựa đứng vào thân người, có màu ngọc lam, dài cở bốn năm tấc (40 - 50 cm). Phật Mẹ Diêu Trì ngồi trên chiếc ngai bằng vàng rồng, phía sau lưng là tấm phủ có chạm khắc hình con chim loan đang xoè cánh múa đuôi thật tinh xảo và tô màu sắc thật sống động!… Từ nơi chỗ đứng của Phật Mẹ Quán Thế Âm dẫn vào đến bệ ngồi của Phật Mẹ Diêu Trì khoảng chừng tám mét, Phật Mẹ Diêu Trì đang nói chuyện với Phật Mẹ Quan Thế Âm điều gì đó… tôi cố ý lắng nghe mà không nghe được!... Phật Mẹ Cửu Thiên bảo tôi lạy tạ ân ba lạy. Trong lúc tôi đang lạy tạ thì tai nghe tiếng của ba vị Phật mẹ cùng cười, như đầy sự vui vẻ. Dưới mái hiên phía trước Điện Diêu Trì, tôi ngồi kiết già, hai tay chấp sát trước ngực, mắt nhắm, một lòng lắng nghe Phật Mẹ Quán Thế Âm Bồ Tát truyền dạy: “… Lâu nay ta đã truyền dạy cho chư sư, chư cố, chư cha... các thần chú khác. Nay ta truyền dạy thần chú này cho con: “DUỆ DUỆ MA MA HỒNG HỒNG”. “Người bình thường nghe thần chú này thân thể khoẻ mạnh, sống lâu... Người có lòng nhân từ, thường làm công việc phước thiện, nghe thần chú này tâm trí càng thêm sáng suốt, thăng quan tiến chức, hưởng phước lộc giàu sang... Người buồn khổ, bệnh đau lâu ngày nghe thần chú này cơ thể hồi phục, vui tươi, hạnh phúc. Kẻ bất hiếu, tà tâm, độc ác nghe thần chú này hồi tâm tỉnh trí, thành người hiền lương, đầy lòng nhân đức. Các vong linh mới vừa quá vãng (những người vừa mới chết), hay chưa đi đầu thai nghe thần chú này liền siêu thoát, tái sinh vào chổ quyền quý. Các loài cầm thú, muôn loài sinh vật nghe thần chú này liền chuyển kiếp thành con người có thân tướng xinh đẹp. Những oan hồn, tà ma, yêu quái, thập loại cô hồn và các vong nhân đang bị giam cầm, khảo tra nơi địa ngục nghe thần chú này thì siêu sinh thoát hoá, đầu thai thành người hiền lành nhân đức.” “Người chân chánh trì niệm thần chú này phước thọ tăng cao, thân tâm an lạc, có trí huệ siêu việt, nghe và nhìn thấy rất xa, hiểu biết rất rộng, ghi nhớ rất lâu, thấu rõ ba kiếp về trước và ba kiếp về sau của đời người, biết tính thiện ác của mọi người và hiểu rõ những chuyện nhân sinh thiên hạ, hoặc nhìn thấy hình ảnh, nghe được những lời u ẩn của các vong linh xiêu mồ lạc mã đang phiêu bạt...” “Nếu có người quyết tâm tu hành trai giới thật thanh tịnh, chuyên tâm trì niệm thần chú này thì chứng pháp Thiên Nhĩ Thông và pháp Thiên Nhãn Thông... hào quang sáng ngời (các luân xa đều khai mở rất cao), đạo quả viên mãn.” Chợt nghe như có tiếng chuông nhà thờ đổ ngân nga… tôi liền tỉnh giấc. Lúc đó là 02 giờ sáng ngày 19 tháng 11 AL năm At Tỵ – 1965.